Tôi mê mẩn những chiếc máy ảnh film rangefinder Minolta nhỏ gọn sản xuất vào những năm 1960. Nếu chỉ nhìn vào giá của những mẫu máy này thì chúng chỉ là đồ bỏ đi. Nhưng thực ra chúng là những sản phẩm kỹ thuật phức tạp và đôi khi là xa xỉ.
Là người dùng máy ảnh compact chủ yếu là loại fixed lens, những chiếc máy ảnh này hoàn toàn phù hợp với tôi. Phải thừa nhận rằng, thiết kế là điểm khởi đầu chính cho sở thích của tôi. Ngoài ra, các lens này còn nổi bật về khả năng tạo ra những bức ảnh phơi sáng chất lượng cao. Điều này hoàn toàn đúng với tất cả các dòng máy ảnh khác nhau của Minolta.
Giờ thì cùng Review máy ảnh tìm hiểu về chúng nhé!
![[Series Minolta]: những dòng máy ảnh film rangefinder thập niên 60](https://reviewmayanh.com/wp-content/uploads/2025/06/4-minolta-1-1024x669.webp)
Minolta AL-F
Chiếc máy lớn nhất trong bài hôm nay là là AL-F, dù chỉ hơn có vài mm. Nó có chế độ phơi sáng ưu tiên màn trập mặc định và dùng pin Weincell 1,35v. Máy ảnh sẽ chọn khẩu độ tùy thuộc vào thời gian màn trập mà bạn chọn. Trừ khi bạn dùng flash, khẩu độ dựa trên giá trị GN đã chọn. Lens Minolta Rokkor 1:2.7 38 mm. Tôi chưa gặp vấn đề gì khi lấy nét trên máy ảnh và độ dịch chuyển tiêu cự rất ngắn.
Đó là máy ảnh film rangefinder đầu tiên của tôi. Khi mua về, tôi phát hiện ra rằng pin nó không hoạt động. Vì vậy nó có khẩu độ mặc định là f/2.7. Tôi sẽ không sử dụng nó dưới ánh sáng mặt trời trực tiếp. Nhưng sẽ dùng trong các điều kiện khác với film màu 200 ASA. Mục đích là để ảnh không bị phơi sáng quá mức. Trên thực tế, khi ánh sáng yếu, nếu tôi muốn phơi sáng ở khẩu độ 4, tôi có thể đặt giá trị GN ở mức 56 (m). Khi đó, máy ảnh sẽ chỉ phơi sáng ở tốc độ 1/30s ở chế độ đèn flash mặc định.

Sau đó,
Tôi đã sử dụng AL-F làm máy ảnh chính của mình trong gần 1 năm. Trong thời gian đó, tôi chưa bao giờ thất vọng về những bức ảnh chụp được. Chủ yếu là ảnh gia đình chụp ngoài trời và một số ảnh phong cảnh. Lens 38 mm là tiêu cự mà tôi rất quen thuộc. Tóm lại, AL-F của tôi là một máy ảnh nhỏ gọn có phần hạn chế. Tuy nhiên lens khá linh hoạt và khá tuyệt vời.
Minoltina – P
Tiếp đến là máy ảnh film Minolta Minoltina-P. Nó có ống kính Rokkor 38mm. Chiếc máy ảnh này nhỏ hơn hẳn so với AL-F, nhưng nặng hơn nhiều. Máy tạo cảm giác nhỏ gọn hơn nhiều, ít mỏng manh hơn và thậm chí còn có cảm giác độc đáo. Lens rất ngắn nên máy ảnh có thể bỏ vừa túi quần jean.

Hệ thống phơi sáng dựa trên giá trị EV và đồng hồ đo phơi sáng chạy bằng selenium. Phía trên cùng của máy có một cửa sổ, bạn sẽ căn chỉnh điểm đánh dấu màu xanh lá cây với điểm đánh dấu màu đỏ để chỉ mức phơi sáng. Bạn di chuyển điểm đánh dấu màu xanh lá cây bằng cách xoay vòng đánh dấu EV trên ống kính. Đối với chế độ đèn flash, thời gian màn trập là 1/30s. Lấy nét dễ dàng với các điểm dừng ở các vị trí thông thường. Nó cũng được hiển thị bằng các ký hiệu trong cùng một cửa sổ với chế độ phơi sáng. Khoảng cách lấy nét khá ngắn.
Tuy nhiên, máy không có máy đo khoảng cách. Phần cửa sổ ở phía trên sẽ xử lý tất cả. Ở chỗ đó, bạn có thể thấy các thông báo về cài đặt khoảng cách và phơi sáng. Sau khi xem xong, người ta chỉ cần đưa mắt vào ống ngắm và chụp ảnh. Tôi rất thích sử dụng Minotina-P. Kích thước của nó là một yếu tố rất thu hút để mang theo. Vá tôi đã chụp được nhiều bức ảnh tuyệt vời khi chụp bằng nó.
Hi-Matic C

Giống như Minoltina-P, đây là máy ảnh lấy nét theo vùng. Nhưng không hoàn toàn giống như P, tất cả những gì bạn cần đều có thể nhìn thấy qua kính ngắm. Ở góc dưới bên phải có một cửa sổ nhỏ hiển thị biểu tượng lấy nét theo vùng đã chọn trên ống kính. Và ở bên phải, khẩu độ đã chọn cũng được hiển thị. Bạn có thể chọn khóa khẩu độ bằng cách nhấn nửa chừng nút chụp. Đối với thời gian chụp, có 2 cài đặt được hiển thị trên lens: ‘sun’ hoặc ‘cloud’. Bạn cũng có thể chọn cài đặt flash với thời gian được khóa ở mức 1/30 và một số loại khẩu độ bằng cách sử dụng cài đặt GN. Tôi đoán 2 ký hiệu tiêu chuẩn tương ứng với 1/250 và 1/60s. Đồng hồ đo sáng dùng bằng pin Weincell 1,35 v.
Thân máy ảnh có cùng kích thước với Minoltina-P nhỏ gọn, nhưng dày hơn một chút. Và khi ống kính được thu vào, nó có cùng độ dày, vừa vặn trong túi quần jean. Phần màu đen của thân máy bằng nhựa. Tuy nhiên, điều đó không làm giảm đi trọng lượng của máy ảnh. Matic – C cho cảm giác rất chắc chắn.
Chụp ảnh bằng Hi-Matic C thật thú vị. Tôi thích lựa chọn chỉ có 2 thời gian phơi sáng kết hợp với khóa khẩu độ. Điều đó khiến tôi trở thành một nhiếp ảnh gia rất năng động, trong khi vẫn được máy ảnh hỗ trợ.
Minoltina – S
Đây là chiếc máy ảnh film rangefinder tôi mong muốn. Nó khá hiếm và phải mất một thời gian để tìm được một chiếc có giá hợp với túi tiền. Nó nhỏ hơn AL-F một chút nhưng thiết kế lại thời trang hơn nhiều. Máy được điều khiển hoàn toàn thủ công với sự trợ giúp của đồng hồ đo sáng selenium.

Giống như tất cả các máy ảnh phía trên, kính ngắm lớn và sáng, và giống như AL-F. Lấy nét rất dễ nhìn và dễ sử dụng. Lens Rokkor-QF 1:1.8 tốt hơn nhiều với độ dịch chuyển lấy nét ngắn đáng khen.
Tôi cho rằng chiếc máy ảnh này ngang bằng với Canonet QL 17 GIII nhưng không có tùy chọn màn trập tự động. Kích thước nhỏ hơn nhưng vẫn là một khối nặng và có lợi thế là chỉ báo phơi sáng chạy bằng năng lượng mặt trời. Thật không may là không có thông tin phơi sáng nào được trong kính ngắm.
Tôi mới chỉ sử dụng máy S lần thứ hai. Nhưng cho đến nay, máy này hoàn toàn vượt trội so với các máy rangefinder tương tự cùng thời mà tôi từng sử dụng.
Lời kết
Đây là những chiếc máy ảnh tuyệt vời mà tôi sẽ ngừng sử dụng mặc dù hiện nay tôi đang có ý định khám phá thế giới máy ảnh rangefinder ngàm M39.Thứ tôi cần là chiếc máy ảnh đáng tin cậy, nhỏ gọn và có lens góc rộng. Và những chiếc máy Minolta này là một lựa chọn hiển nhiên. Chúng nằm trong số những chiếc máy ảnh hàng đầu trên thị trường máy ảnh tiêu dùng vào những năm 1960. Không có gì ngạc nhiên khi chúng vẫn hoạt động và thiết kế của chúng là nguồn cảm hứng cho những chiếc máy ảnh digital hiện đại.
Và đó là những gì Review Máy Ảnh muốn gửi đến bạn trong bài review hôm nay. Đừng quên bấm theo dõi Review Máy Ảnh đón xem các bài viết bổ ích kế tiếp nhé!