Đây là 1 năm khá quan trọng với Canon. Vào tháng 3; hệ thống Canon EOS đã ra mắt vào năm 1987 với chiếc máy ảnh EOS 650; chào đón sinh nhật thứ 35 của mình. Năm ngoái; tôi đã thấy chiếc máy EOS R7 và R10. Đây là 2 chiếc máy ảnh mirrorless mạnh mẽ và có chi phí khá hợp lý.
Dù cho thương hiệu EOS đã đóng góp toàn cầu; lịch sử Canon lan rộng khắp hơn cả hệ thống Electro Optical. Thế nên; Review máy ảnh quyết định nhìn lại và chọn ra những máy ảnh Canon tốt nhất trong suốt thời gian lịch sử 84 năm. Cuối cùng thì; nếu có thứ gì khiến con tim chúng ta hào hứng hơn là 1 chiếc máy ảnh mới; đò chính là máy ảnh cũ.
Nếu có công ty nào mà lịch sử sản phẩm của nó bắt kịp sử phát triển của nhiếp ảnh hiện đại; từ những ngày đầu tiên nhiếp ảnh tiếp cận thị trường đại chúng cho đến thời gian gần đây; thì đó chính là Canon.
Từ khi chiếc Canon Hansa từ năm 1934 cho đến EOS R7; máy ảnh Canon đã ghi lại tài liệu qua 2 cuộc chiến tranh thế giới; 20 hội thi Olympic; hàng trăm nhà lãnh đạo thế giới và vô số các kỷ niệm gia đình.
Vì vậy,
Từ lúc những chiếc máy ảnh không có pin cho đến những chiếc máy siêu máy tính có lens ngày nay; tìm kiếm các dòng Canon là tìm kiếm lịch sử nhiếp ảnh; cũng như xu hướng của khách hàng và người chuyên nghiệp.
Dưới đây là 10 dòng máy ảnh nổi tiếng nhất; bao gồm máy film và digital. Bạn đã sở hữu được món nào?
10/ (1998) Canon EOS 3
Đến tận 23 năm sau kể từ khi Canon EOS 3 ra mắt; họ mới sản xuất thế hệ Canon EOS R3 tiếp theo. Nhưng mặc dù dòng máy ảnh cao cấp hơi kém 1 chút so với nhu cầu máy ảnh digital seri 3; EOS 3 là sản phẩm ấn tượng kết hợp máy ảnh chuyên nghiệp và nghiệp dư của Canon.
Về thông số kỹ thuật; đáng chú ý là máy ảnh 35mm. Nó có hệ thống lấy nét tự động; thể hiện đủ các mẹo giúp bạn hô biến bức ảnh như 1 bậc thầy phù thủy. Ngoài dòng máy EOS-1 cao cấp; nó có hệ thống lấy nét tự động tinh vi nhất so với bất kỳ máy nào của Canon dù là máy digital hat film; cho đến khi EOS 5D Mark III ra đời.
Với 45 điểm lấy nét tự động khắp cả khung hình; nó cho phép 1 lượng lớn sự linh hoạt trong kết cấu. Không chỉ vậy; EOS 3 là chiếc máy cuối cùng có AF điều chỉnh bằng mắt; trong đó bạn có thể định hướng máy ảnh dùng 1 điểm lấy nét tự động cụ thể bằng cách nhìn vào khu vực trong khung hình khi bạn đang quan sát qua kính ngắm.
Thêm vào đó,
Việc củng cố hơn về thông tin chuyên nghiệp của EOS 3 là khả năng chụp 4,3 khung hình/giây với động cơ film tích hợp. Bạn có thể tăng tốc độ lên 7fps nếu đính kèm tùy chọn Canon Powerdrive Booster.
Phần thú vị nhất đối với dân mọt máy ảnh như chúng ta là sự số lượng tương đồng mà EOS 3 chia sẻ với gần như tất cả máy digital cao cấp của Canon sau này. Tất nhiên là ngàm này thống nhất cho tới khi ngàm RF ra đời; kéo theo các bốc cụ điều khiển; chức năng lấy nét tự động; cách trình bày dữ liệu chụp trong kính ngắm quang học và nhiều thứ khác cũng vậy.
Chính sự nhất quán này; cũng như chất lượng hình ảnh và lựa chọn về lens đảm bảo cho các nhà nhiếp ảnh có thể thoải mái điều hướng khi thay đổi lớn từ film sang digital. EOS 3 là 1 biểu tượng của điều này.
9/ (2000) Canon PowerShot G1
Hãy dành 1 khoảng lặng và tri ân tới chiếc máy ảnh compact đã biến mất. Ra đời trong giai đoạn tro tàn của thị trường máy film point and shoot; máy ảnh compact digital như PowerShot G1 và Canon Ixus range hiện tại đều đã ngừng sản xuất. Chúng đã bị soán ngôi bởi smartphone và các máy ảnh mirrorless xịn xò hơn.
Vào năm 2000,
PowerShot G1 là lý do lớn khiến máy ảnh digital thu hút rộng rãi. Nó không hề rẻ; nhưng so với dòng digital SLR; nó đại diện 1 cách khá hợp lý để tiếp cận nhiếp ảnh digital cao cấp.
Nó có cảm biến 1/1.8 CCD với 3.24 megapixels; có thể chụp khẩu độ giữa 50 và 400. Để thu hút các nhiếp ảnh gia có tham vọng; nó bao gồm chế độ thủ công; mặc dù optical zoom (tiêu cự từ 34-102mm thành 35mm; theo thông tin từ người hâm mộ) mang lại nhiều tính linh hoạt khi bạn không thể tháo lens. Điểm đặc biệt nhất là; nó cho phép ta thực hiện các cuộc hành trình với đèn flash thích hợp; và có thể chụp ảnh raw, JPEG.
Có một số điểm nhấn mang tính tương lai; chẳng hạn như màn hình đa góc nhìn; và cũng như một số tính năng đã biến mất đầy thất vọng khi máy digital nhỏ gọn phát triển. Tôi đang nói đến màn hình được gắn ở trên hiển thị thông tin chụp ảnh hiện tại; cho phép người dùng cài đặt máy ảnh và điều chỉnh ảnh thông qua kính ngắm quang học; mà không cần dùng đến màn hình phía sau 1.8 inch gây hao pin.
8/ (2021) Canon EOS R3
Nó tạo nên sự ham thích đến mức bạn không thể mua được 1 chiếc nào vào mùa hè năm 2022. Chiếc EOS R3 có tất cả mọi thứ tài nguyên trong huyền thoại mà Canon có. Các kiểu dáng chuyên nghiệp hàng đầu của Canon là món đồ trong mơ mà dân chuyên nghiệp và cả nghiệp dư đều thích. EOS R3 là giấc mơ tuyệt vời nhất của nhiều thợ chụp ảnh; bất kể họ đang theo đuổi thể loại nào.
Dĩ nhiên là thông số kỹ thuật đáng chú ý: màn trập cơ học chụp full-frame 24.1MP ảnh ở tốc độ clip 12 fps; hoặc 30 fps với màn trập máy. Cảm biến ISO chạy với tốc độ tối đa chóng mặt ở mức 204,800; và có hệ thống bonkers lấy nét tự động phù hợp cho khả năng theo dõi con người; phương tiện và động vật chính xác trong mọi loại ánh sáng. Quay video cũng tốt lên đến 12bit; 6K RAW hoặc 10bit 4K.
Tuy nhiên;
Vẫn có vấn đề nhỏ trong việc xây dựng chất lượng. Mấy thập kỷ nay; Canon đã sản xuất máy ảnh chắc chắn; R3 – phiên bản tốt hơn hẳn R6 hoặc R5 – vẫn tiếp tục truyền thống đó. Ngay cả khả năng chống bụi; nước và chống sốc đều có; đây là chiếc máy ảnh mirrorless có chiều cao đầy đủ đầu tiên (có báng cầm phù hợp) của Canon.
Điều gì khiến máy ảnh Canon EOS R3 thành di sản? Nó là chiếc máy ảnh mirrorless đầu tiên mà bạn chỉ ở trên tay của dân chuyên nghiệp. Điều này không có nghĩa là R5, R6 không phải là máy chuyên nghiệp; nhưng EOS R3 trọng lượng lớn và chi phí cao khiến nó không thu hút được dân nghiệp dư; đặc biệt là trong tình huống thực tế khó khăn.
7/ Canonflex (1959)
Đây là món đồ tốt đó. Hãy quên chiếc máy digital SLR đầu tiên của bạn đi; chiếc SLR lấy nét tự động hoặc chiếc máy SLR phơi sáng qua lens. Canonflex đã bắt đầu mọi thứ vào năm 1959. Nó là chiếc máy ảnh reflex lens đơn đầu tiên mà hãng sản xuất; điều này làm giảm thiểu máy đo khoảng cách.
Ngay cả khi có suy nghĩ về bản chất của cuộc cải cách; khi nhìn vào lens máy ảnh và thấy chính xác những gì film thực hiện; Canonflex mang nhiều điểm nổi bật của những chiếc máy DSLR hiện đại. Bộ chọn tốc độ cửa trập được gắn trên cùng; cuộn film và nút chụp; được nối với nhau bằng ngàm lens khóa nòng; cộng với kính ngắm có thể hoán đổi cho nhau có thể được chuyển đổi để vận hành theo chiều cao đầu hoặc ngang hông, bố cục từ trên xuống. Điểm khác biệt chính với các máy Canon SLR sau này là cuộn film được gắn ở dưới máy ảnh thay vì trên cùng.
Dĩ nhiên,
Nó là việc hoàn toàn thủ công; không có lấy nét tự động; cũng không có thước đo phơi sáng; nên bạn cần máy đo sáng cầm tay; hoặc máy đo selenium riêng của Canon. Ngoài ra; đến năm 1962 các thợ chụp ảnh yêu thích có thể mua Canonflex RM có thước đo phơi sáng bên trong máy.
6/ Canon EOS-1D C (2012)
Điểm “C” trên máy ảnh Canon biểu thị vùng cinema của sản phẩm của công ty. Bạn thường thấy thiết bị quay film cao cấp, chuyên nghiệp này trên tay của các nhà quay chương trình truyền hình; film truyện hay film tài liệu.
Có một số sản phẩm cổ điển trong phân khúc này. EOS C200, C300 Mark II và C700 FF huyền thoại đều là những máy quay video có thể thay đổi lens, được thiết kế theo phong cách cổ điển. EOS-1D C 2012 thì không như vậy; đây là nỗ lực đầu tiên của Canon đối với máy ảnh dòng Cinema; nó không được thiết kế hộp có lens trên đó như trước đó. Thay vào đó, nó mượn thân máy của EOS-1D X ban đầu; thực hiện một vài thay đổi quan trọng để làm cho chiếc máy ảnh này trở nên hấp dẫn hơn khi làm việc trên phim trường.
Vì vậy,
Đây là dòng DSLR đầu tiên quay ở chế độ video 4K; 24-25 fps không giới hạn thời gian ghi. Tính năng khác có sự thu hút lớn là khả năng chụp LOG – cho file với vùng dải động tối đa. Cũng có 1 số hạn chế; mặc dù EOS-1D có cảm biến khung hình; nó đã dùng mảnh cảm biến kích thước APS-H của cảm biến để quay video 4K; tăng độ dài tiêu cự và giảm độ sâu trường ảnh. Về giá; nó có giá dưới $15,000; hướng tới các nhà làm film và sản xuất cao cấp.
EOS-1D đã đánh dấu như một dòng “niche” tuyệt vời của Canon; đồng thời cũng cho thấy sự đánh giá cao về phương hướng của nghệ thuật thị giác. Một thế hệ người chụp hybrid có khả năng tạo ra ảnh tỉnh và ảnh động chất lượng đang tăng cao; máy EOS-1D C và những dòng có chi phí hợp lý hơn; hiện đại hơn EOS C70 hay EOS R5 C tiếp tục sự kế thừa của nó.
5/ Canon EOS R5
EOS R5 tốt hơn theo mọi cách có thể hiểu được – nó nhanh hơn; độ phân giải cao hơn; quay video hiệu quả hơn nhiều. Nhưng EOS R xét cho cùng là máy ảnh ngàm RF đầu tiên của Canon. Nếu ngàm RF đi cùng một khoảng cách với ngàm EF sắp ra mắt; thì EOS R thực sự có thể trở thành máy ảnh quan trọng hơn.
Tuy nhiên, điều quan trọng là nó không phải là chiếc máy ảnh tốt hơn; và đối với nhiều nhiếp ảnh gia cả chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư đã sử dụng EOS R5; thật dễ dàng để giải thích tại sao R5 là một chiếc máy ảnh có ý nghĩa lịch sử. Có điều, số ‘5’ trong tên cho thấy nó là sản phẩm kế thừa; dù cố ý hay vô tình của EOS 5D series.
Mặt khác
Nó thực hiện gần như mọi thủ thuật kỹ thuật mà bạn có thể muốn ở một chiếc máy ảnh vào năm 2022. Thông số 45 megapixel, 20 fps từ màn trập điện tử (12 với màn trập cơ học); và hơn 5.000 điểm lấy nét tự động; hoàn chỉnh với động vật, con người ở một tầm khác; và hệ thống phát hiện và theo dõi phương tiện. Video lên đến 8K raw cho những người có chia sẻ trong SanDisk; hoặc 4K 10-bit ở tốc độ tối đa 100 fps.
Tất cả đều được thực hiện với khoa học màu sắc và khung hình thẳng đứng huyền thoại của Canon; và mặc dù bạn chắc chắn có thể khẳng định rằng EOS R6, R, RP và EOS R3 đều là những chiếc máy ảnh ưu việt theo đúng nghĩa của chúng; nhưng EOS R5 là chiếc máy ảnh mang lại thông điệp về nhà cho cả các chuyên gia của Canon và các đối thủ cạnh tranh của công ty – máy ảnh mirrorless tồn tại và Canon là tất cả.
4/ Canon EOS D30 (2000)
EOS D30 là máy ảnh 3,25MP được thiết kế ngay từ đầu như một máy ảnh digital – không phải máy ảnh film với cơ chế vận chuyển film bị loại bỏ và thay thế bằng cảm biến kỹ thuật số kiểu Frankenstein. Cảm biến của nó là số kích thước APS-C có khả năng chụp ISO từ 100 đến 1600; với tốc độ tối đa 3 fps.
Về thiết kế, nó đã được thử và kiểm tra – D30 hầu như không thể phân biệt được với những người anh em máy ảnh EOS cùng thời của nó; và thực sự bạn phải xem xét kỹ lưỡng để phát hiện ra nhiều điểm khác biệt giữa chúng.
Gần như, dù sao đi nữa thì hãy nhìn xung quanh và bạn sẽ tìm thấy một màn hình đánh giá 1,8 inch nhỏ bé chỉ với 114.000 pixel. Điều này nghe có vẻ không phải là mức giá đáng tin đối với một chiếc máy ảnh khoảng $3.000. Nhưng hãy nhớ rằng đối với các nhiếp ảnh gia vào năm 2000; việc có thể nhìn thấy một bức ảnh ngay khi nó được gắn vào thẻ nhớ (trong trường hợp này là CompactFlash hoặc Microdrive) sẽ gây ra phản ứng tương tự như việc xem một chú lợn bay.
3/ Canon EOS 650 (1987)
Bạn có thể bỏ qua việc khó ngắm ảnh với chiếc máy ảnh này. Thoạt nhìn, EOS 650 là một chiếc máy ảnh film 35 mm, cao, tương đối không có gì nổi bật. Nó ra mắt lần đầu tiên vào năm 1987; và nhìn vào nó bây giờ thì không có nhiều yếu tố để khiến nó trở nên đột phá. Nó có thể quay tới 3 fps nhờ cuộn film có động cơ và cung cấp tính năng đo sáng TTL; tất cả nằm trong một thân máy có giá khoảng $830.
Nhưng điều khiến EOS 650 trở nên nổi bật là ngàm lens của nó. Cho đến EOS 650, Canon trước đó đã sử dụng ngàm FD; một loại ngàm (hầu hết) chỉ sử dụng thủ công đã được sử dụng gần 20 năm. EOS 650 đã giới thiệu ngàm EF; ngàm lens chỉ sử dụng điện tử; và loại bỏ động cơ AF gắn trên thân máy để truyền dữ liệu tốc độ cao giữa ngàm lens máy ảnh và lens của nó.
Có thể xem như
Đó là một bước đột phá vào thời điểm đó, nhưng lý do chúng tôi đưa nó vào đây là bởi vì nó là một thiết kế điện tử; cũng như máy móc và công nghệ đã vượt qua thách thức thời gian tốt hơn hầu hết mọi thứ khác; mà chúng tôi có thể nghĩ tới. Canon đã giới thiệu ngàm RF – sản phẩm thay thế ngàm EF – gần đây nhất là vào năm 2018; điều đó có nghĩa là trong hơn 30 năm, ngàm EF là sự lựa chọn của vô số nhiếp ảnh gia nghiệp dư và chuyên nghiệp.
Nó chịu được sự chuyển đổi địa chấn từ film sang digital; từ chụp ảnh tĩnh sang quay video kết hợp; tăng đáng kể khả năng phân giải cũng như những cải tiến trong công nghệ xử lý dữ liệu và băng thông. Đó là một phần thiết kế nhiếp ảnh hiệu quả và tồn tại lâu dài một cách ngoạn mục; và không thể phủ nhận rằng thế giới nhiếp ảnh càng phong phú nhờ sự tồn tại của nó.
2/ Canon EOS 5D Mark II và EOS 5D (2008, 2005)
Chúng tôi đã gian lận một chút ở đây và đưa EOS 5D và EOS 5D Mark II vào một mục; vì cả hai đều là những sản phẩm kinh điển theo đúng nghĩa của chúng. EOS 5D rất đặc biệt vì đây là chiếc máy ảnh DSLR thấp đầu tiên của Canon.
Nói cách khác, chiếc máy ảnh này không có báng cầm pin tích hợp. Và mặc dù được dán nhãn ‘giá cả phải chăng’; nhưng nó đã mang đến khả năng chụp ảnh full-frame cho toàn bộ người dùng. Chụp ảnh full-frame có nghĩa là độ sâu trường ảnh chặt chẽ hơn; hiệu suất vượt trội ở ISO cao hơn và hình ảnh có chất lượng tốt hơn.
Nó cũng được chế tạo giống như một chiếc xe tăng; thực tế là thiết kế của dòng máy ảnh EOS 5D đã không thay đổi đáng kể giữa bản gốc năm 2005; và EOS 5D Mark IV năm 2016 lời tán thưởng về việc các kỹ sư của Canon đã làm được điều đó chính xác ngay từ lần đầu tiên của họ.
Ban đầu,
5D là một con quái vật – cảm biến 12,8MP và ISO tối đa 3.200 ngay lập tức khiến nó trở thành sản phẩm yêu thích của các nhiếp ảnh gia studio trên toàn thế giới.
Nó không hoàn hảo – AF 9 điểm vẫn khá mờ nhạt ngay cả vào thời của nó; và càng ít nói về tốc độ quay tối đa của nó (chỉ 3 fps); đó là lý do EOS 5D Mark II của năm 2008 xuất hiện. Điều này được cải thiện trên bản gốc gần như về mọi mặt, bổ sung độ phân giải (21,1MP), tốc độ (4 fps), ISO (25.600 ở đầu cuối) và quan trọng nhất là video.
EOS 5D Mark II là máy ảnh DSLR đầu tiên của Canon quay video và có chất lượng tốt, video 1080p ở tốc độ 30 hoặc 24 fps. Nó được đón nhận nhiệt tình; một tập film năm 2010 của House được quay bằng máy 5D Mark II, cũng như một phần của film The Avengers.
1/ Canon AE-1 (1976)
Nếu AE-1 trông có vẻ quen thuộc thì đó là bởi vì kiểu dáng góc cạnh; lớp hoàn thiện màu bạc nổi bật và chất liệu nhựa giả da của nó đã là trụ cột của thiết kế sản phẩm nhiếp ảnh trong một thế hệ.
Được phát hành lần đầu vào năm 1976; đây là một hiệu ứng đáng ngạc nhiên lúc đó – những chiếc máy ảnh này được bán đắt như tôm tươi khi chụp ảnh; Canon đã xuất xưởng gần sáu triệu chiếc trước khi ngừng sản xuất vào năm 1984. Số lượng máy ảnh được sản xuất vô cùng lớn; cùng với kiểu dáng lâu đời, huyền thoại của Canon.
Chúng tôi đã nói phơi sáng tự động? Chúng tôi chắc chắn là vậy – đây là chiếc máy ảnh SLR đầu tiên có bộ vi xử lý, và chính điều này – đảm bảo tính dễ sử dụng – cũng như giá máy ảnh tương đối phải chăng, đã đảm bảo vị trí của AE-1 trong lịch sử nhiếp ảnh. AE-1 đã sử dụng ngàm FD của Canon – một ngàm chỉ lấy nét thủ công hỗ trợ hàng chục lens từ loại rẻ tiền 50mm f/1.8 cho đến bonkers 5kg, FD800mm f/5.6L.
Khi sử dụng,
Nó là một bộ dụng cụ có cảm giác máy móc tuyệt đẹp. Bạn có thể nhận được một Power Winder điện nếu bạn muốn (cho phép bạn chụp với tốc độ 2 fps), nhưng đối với một nhiếp ảnh gia analog hiện đại; điều đó sẽ tước đi sự khéo léo thỏa mãn khi kéo winding handle thủ công sau mỗi lần chụp. Tương tự như vậy, tua lại là mở winder trên vai trái của máy ảnh và quay cuộn film trở lại hộp đựng của nó theo cách thủ công.
Và đó là những gì Review Máy Ảnh muốn gửi đến bạn trong bài viết này. Đừng quên bấm theo dõi Review Máy Ảnh đón xem các bài viết bổ ích kế tiếp nhé!