[Review] Nikon Z7 II: dòng máy tiêu biểu trong series Z

30/08/2023

Chiếc máy Z fc cổ điển đã xuất hiện vào giữa năm 2021. Đến mùa thu cùng năm, Nikon Z9 Pro đáng mong đợi được ra mắt. Không nghi ngờ gì khi mẫu này đã làm nên những điều đáng kinh ngạc cho vị thế của hãng. Sự ra đời của Z9 Pro khiến Nikon ngang hàng với Canon và Sony. Dòng Z8 cũng gia nhập vào danh sách các sản phẩm cao cấp nhất của hãng. Theo đó, Nikon Z7 II tiếp bước máy Z7 nổi tiếng trở thành mẫu máy dẫn đầu trong Z-series.

Z7 II gần như giống hệt với Z7 về mặt thiết kế. Nó giải quyết được những thiếu sót của bản gốc. Liệu Z7 II có thu hút được những người chưa dùng mirrorless hay không? Liệu có đáng để nâng cấp từ Z7 lên Z7 II? Hãy tìm câu trả lời cùng với Review máy ảnh nha!

Z7 II gần như giống hệt với Z7 về mặt thiết kế và giải quyết được những thiếu sót của bản gốc.
Z7 II gần như giống hệt với Z7 về mặt thiết kế và giải quyết được những thiếu sót của bản gốc.

Sơ lược về máy ảnh

Mức giá khoảng $2997 (chỉ thân máy)
Ngàm Nikon Z
Cảm biến full-frame BSI CMOS 45.7MP
Bộ xử lý hình ảnh EXPEED 6 kép
ISO 64 – 25600 (Có thể mở rộng lên ISO 32 – 102400)
Ổn định hình ảnh 5 trục tích hợp
Chụp liên tục 10fps (Chế độ AF đơn)
Video 4K/60p
Khe card kép (XQD/ CFexpress và SD)
Chống chịu được thời tiết

Các tính năng

Nói về độ phân giải, Nikon Z7 II kế thừa cảm biến chiếu sáng sau full-frame 45.7MP của Z7. Nó khắc hẳn với cảm biến 24.5MP được dùng trên Z6 và Z6 II ở chỗ không có bộ lọc anti-aliasing. Do có độ cảm biến hệt nhau nên không có thay đổi về vùng độ nhạy, nằm trong khoảng 46-25600. Nó còn có thể mở rộng thành ISO 32-102400.

Thay vì dùng bộ xử lý đơn EXPEED 6 như Z7, Z7 II được nâng lên bộ xử lý kép EXPEED 6. Tăng khả năng chụp hình nhanh hơn và lâu hơn. Nó chụp được ở tốc độ lên tới 10fps khi dùng lấy nét tự động đơn (single AF). Hơn nữa kích thước của bộ đệm cũng được cải thiện đáng kể. Nikon nói rằng máy có thể chụp 77 ảnh raw 12bit hoặc 200 ảnh JPEG. Trong khi Z7 chỉ có thể tạo 25 ảnh JPEG 9fps hoặc 20 tệp raw 9fps trước khi bộ đệm bị giới hạn.

Để bảo đảm tính năng đọc nhanh, Nikon Z7 II 1 lần nữa cung cấp khe thẻ CFexpress/ XQD. Nikon đã khắc phục nhược điểm trên Z7 bằng cách có thêm 1 khe đơn cho thẻ UHS-II SD. Bản cập nhật này sẽ được đón nhận với những người không thích dồn hết trứng vào 1 giỏ.

Ngoài ra,

Hệ thống AF hybrid kết hợp các điểm phát hiện độ tương phản và pha trên 90% diện tích bề mặt cảm biến của nó cũng tương tự. Dù cho có ít sự tinh chế được thực hiện. Tổng có 493 điểm phát hiện pha so với 273 điểm trên Z6 II. Tùy chọn mọi điểm khác để định vị lại AF cũng nhanh hơn trên khung hình.

Vùng nhận diện của hệ thống AF reoojng hơn là trên Z7. Nó giúp lấy nét hiệu quả hơn ở trong cảnh tối. Nó trải dài từ -3EV đến +19EV hoặc -4EV đến +19EV khi sử dụng ở chế độ AF ánh sáng yếu. AF xác giúp lấy nét chính xác vào các đối tượng nhỏ trong khung hình và các chế độ vùng AF khác. Chúng bao gồm AF một điểm, lựa chọn hai chế độ AF vùng rộng (S và L) và chế độ AF vùng tự động.

Hiện nay nhận diện mặt, mắt, động vật có thể được dùng rộng hơn ở 2 chế độ AF vùng lớn, cũng như AF vùng tự động. Nikon đã thêm các cài đặt nhận diện vào iMenu thay vì giới hạn nó ở ảnh tĩnh như trên Z7. Chúng cũng được dùng khi quay video luôn.

Nikon đã thêm các cài đặt nhận diện vào iMenu thay vì giới hạn nó ở ảnh tĩnh như trên Z7
Nikon đã thêm các cài đặt nhận diện vào iMenu thay vì giới hạn nó ở ảnh tĩnh như trên Z7

Video

Z7 II được trang bị khả năng quay 4K. Nhưng không giống như Z7 bị giới hạn ở tốc độ 30fps. Tốc độ khung hình cao nhất đã tăng lên 60fps. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng video 8 bit 4K/60p có thể được ghi internal và bị 1 phần cắt nhỏ (khoảng 93% chiều rộng khung hình FX).

Full HD với tốc độ lên tới 120fps cũng có sẵn. Và đối với các cảnh quay dài hoặc quay time-lapse dài, có tùy chọn cung cấp năng lượng liên tục cho máy ảnh (hoặc sạc pin) thông qua powerbank và cáp USB Type-C. Có thể sử dụng màn hình lấy nét và hoa văn ngựa vằn để tinh chỉnh tiêu điểm và độ phơi sáng. Đồng thời cả VR và Active D-Lighting đều khả dụng.

Máy ảnh có cổng micrô và tai nghe 3,5 mm. Đồng thời có tùy chọn xuất ProRes Raw qua HDMI sang đầu ghi bên ngoài và tùy chọn tinh chỉnh tốc độ AF và độ nhạy theo dõi.

Việc chuyển sang dùng pin Li-ion EN-EL15 đã giúp tăng tuổi thọ pin. Khả năng chụp 420 ảnh bằng màn hình LCD hoặc 360 bức ảnh bằng EVF. Nó vượt qua khả năng chịu đựng 330 bức ảnh của Z7 ban đầu.

Tính ổn định hình ảnh

Có 1 số thay đổi nhỏ, Z7 II chiếm ưu thế do dùng cùng hệ thống ổn định tích hợp 5 trục. Máy còn còn tốt độ màn trập khoảng 30s tới 1/8000s. Tốc độ tối đa 1/2000s khi dùng màn trập điện tử. Và cung cấp khả năng đo sáng TTL, điều khiển bù phơi sáng 5 điểm dừng.

Thay đổi khác là về app SnapBridge của Nikon. Người dùng có thể cập nhật firmware trực tiếp trên máy ảnh từ smartphone khi có kết nối Wifi và Bluetooth. Đây là cách điều khiển không dây mà bạn hằng mong mỏi. Nó bao gồm tùy chọn điều khiển máy từ xa và thiết lập kết nối Bluetooth luôn bật. Cho phép bạn chụp ảnh có thể tự động chuyển sang smartphone.

Lắp đặt và bộ xử lý

Thoạt nhìn thì không có quá nhiều khác biệt giữa Nikon Z7 và Z7 II. Nếu không có huy hiệu ở trước thì bạn sẽ dễ nhận sai dòng máy của chúng. Nhưng khi nhìn gần từ trên cao, bạn sẽ thấy Z7 II có phần to hơn 1 chút. Bởi vì nó cần thêm độ dày 2mm cho khe thẻ SD mới, bên cạnh khe CFexpress/ XQD. Phần cửa thẻ nhớ cũng rộng hơn 1 chút và kính EVF ở phía sau không nhô ra khỏi màn hình nhiều.

Bên trái là Nikon Z7, bên phải là Z7 II
Bên trái là Nikon Z7, bên phải là Z7 II

Sự khác biệt nhỏ về độ sâu máy không cảm nhận được khi cầm trên tay. Máy ảnh vẫn duy trì được các đặc tính xử lý tuyệt vời của bản gốc. Được làm từ khung hợp kim magie như Z7. Nó có thể chống chịu được thời tiết. Z7 II hoàn toàn được bảo vệ khỏi độ ẩm, bụi xâm nhập qua các đường nối, làm hỏng thiết bị.

Máy vẫn hoạt động tốt dưới mưa xối xả, cũng như điều kiện cực lạnh. Không có thay đổi nào trong hoạt động vận hành. Điều cần chú ý là nếu bạn muốn vào cổng USB để sạc cho máy ảnh trong thời tiết xấu, nó sẽ lộ các đầu nối HDMI và phụ kiện.

Thêm nữa,

Tay cầm bọc cao su được điêu khắc tuyệt đẹp cùng chỗ đặt ngón tay cái to lớn kết hợp với nhau. Để mang lại cảm giác chắc chắn và an toàn trong tay bạn. Cách bố trí các nút, nút xoay và điều khiển trên Z7 rất phù hợp. Tất cả các điều khiển trên Nikon Z7 II đều ở cùng một vị trí. Đây là tin tốt cho những ai có ý định nâng cấp vì họ sẽ có thể thực hiện chuyển đổi và ngay lập tức quen thuộc. Người dùng máy ảnh DSLR của Nikon chuyển sang Z7 II cũng sẽ thấy không có nhiều điều mới để tìm hiểu. Với các nút được bố trí hợp lý trên thân máy ở nơi bạn mong muốn tìm thấy chúng.

Các nút bấm và hộp số

Các nút quan trọng đều nằm trong tầm tay phải của bạn. Ngoại trừ các nút playback và delete được đặt lệch về phía bên trái của kính ngắm, tránh việc vô tình nhấn vào. Nút phát lại ở cạnh thân máy giúp dễ dàng chuyển đổi giữa việc chụp và xem lại. Giống như tất cả các nút khác, nó có cảm giác khá mềm, xốp và không có tiếng động.

Hộp số chế độ nằm ở trên bên trái và cần nhấn nút khóa trung tâm khi xoay. Thay vì xoay hộp số ổ đĩa bên dưới, các chế độ ổ đĩa được chọn từ một nút chuyên dụng bên dưới nút menu bằng cách sử dụng d-pad thay vì quay số bằng ngón cái trước/sau như trên Z7. Người dùng có cần điều khiển có khía nằm dưới ngón tay cái. Điểm lấy nét có thể được dịch chuyển theo đường chéo trên khung hình cũng như lên/xuống, trái/phải để đến nơi bạn cần nhanh nhất có thể.

Chuyển sang phía trên cùng, có 1 hộp số xoay ra trước và sau. Nó được đặt ở vị trí hợp lý để thực hiện điều chỉnh độ phơi sáng nhanh. Hộp số quay film chỉ bắt đầu quay khi chế độ quay film được kích hoạt từ nút chuyển ảnh tĩnh/video.

 Góc nhìn từ phía trên Nikon Z7 II
Góc nhìn từ phía trên Nikon Z7 II

Không giống như Nikon Z5,

Nikon Z7 II có ưu thế từ màn hình vuông phía trên. Nó hiển thị tất cả thông tin chụp chính mà bạn có thể muốn xem qua. Bao gồm tốc độ màn trập, khẩu độ, ISO, pin, chế độ chụp và dung lượng còn lại, thẻ nhớ. Nó hiển thị thông tin màu trắng trên nền đen. Không có cách nào đảo ngược màn hình như trên một số máy ảnh. Tuy nhiên, nó đủ nhạy để tự động thích ứng với điều kiện ánh sáng xung quanh và tắt máy ảnh.

Báng cầm dọc

Có 1 chút thất vọng về báng cầm. Nikon đã không thiết kế MB-N10 như một báng cầm thẳng đứng thích hợp cho Z7. Nó chỉ chứa một cặp pin. Máy không có các nút trùng lặp và các điều khiển quan trọng nhất để giúp chụp ảnh theo hướng dọc dễ dàng hơn .

Vấn đề này đã được giải quyết nhờ sự ra đời của báng cầm dọc MB-N11. Báng cầm này cũng tương thích với Z6 II. Việc đặt vào 1 cặp pin sẽ tăng thời lượng pin lên hơn 300 lần chụp. Tuy nhiên, bạn sẽ cần sử dụng pin EN-EL15c hoặc EN-EL15b nếu muốn sạc chúng qua cổng USB-C tích hợp.

Báng cầm MB-N11 có thể gắn với nhiều loại máy khác ngoài Z7 II
Báng cầm MB-N11 có thể gắn với nhiều loại máy khác ngoài Z7 II

Báng cầm cho phép trao đổi pin mà không làm mất điện cho máy ảnh. Lợi ích của việc có cổng USB riêng nghĩa là nó giải phóng cổng USB của máy ảnh cho các mục đích sử dụng khác. Và cho phép người dùng sạc 2 pin lần lượt khi ngắt kết nối với máy ảnh.

Về mặt điều khiển, có nút chụp, nút xoay trước và sau, nút AF-ON và cần điều khiển vùng AF. Báng cầm bụi và chống nước MB-11 tăng thêm 290g trọng lượng của máy ảnh (không tính pin).

Kính ngắm và màn hình

Nikon đã dùng màn hình điện tử 0,5inch, 3,69 triệu điểm trên cả 3 mẫu máy ảnh mirrorless full frame trước đó. Canon EOS R5 và Sony A7R IV dùng kính ngắm 5,76 triệu điểm độ phân giải. Tuy nhiên Z 7 II có cùng màn hình 3,69 triệu điểm được Z7 sử dụng với 0,8 lần phóng đại.

EVF có tốc độ refresh nhanh ở mức 60fps và hiển thị thông tin chụp rõ ràng ở nền đen phía trên và bên dưới ảnh preview. Nếu thường chụp bằng kính ngắm, bạn có thể dùng nút trên vai EVF để chuyển chế độ tự động giữa kính ngắm và màn hình sang chế độ chỉ kính ngắm.

Bên dưới EVF là màn hình cảm ứng 2.1 triệu điểm phân giải cao. Màn hình có thể nghiêng 90 độ và gập xuống 45 độ. Nó cung cấp khả năng cơ động tương tự như màn hình trên A7R IV của Sony. Nhưng không cho phép tự do di chuyển nhiều như màn hình có khớp nối hoàn chỉnh giống như Canon EOS R5.

Lấy nét tự động (AF)

Khi chụp bằng Z7 khá dễ dàng làm mất chủ thể trong khung hình. Nhưng có một cải tiến đáng chú ý khi chuyển sang Z7 II. Đó là không bị độ trễ tương tự hoặc không bắt được chủ thể trong khung hình. .

Về khả năng phản hồi của AF, Z7 II nhanh chóng tìm được điểm lấy nét ở chế độ AF đơn (AF-S). Và thực hiện khá tốt việc theo kịp các đối tượng chuyển động nhanh khi chụp liên tục. Đôi khi ở tiêu cự dài hơn, tôi nhận thấy có độ trễ nhất thời khi lấy nét giữa các đối tượng ở gần và xa.

AF trên chiếc máy mới này đã cải tiến và có thể lấy nét chính xác trong điều kiện tối. Tuy là vậy nhưng nó cũng cần cải thiện nhiều hơn. Nikon Z7 II có ưu thế hơn dòng Nikon DSLR vì được cung cấp AF lớn hơn và hệ thống nhận diện mắt. Những chiếc máy như D850, D5 có điện thoán theo dõi AF phức tạp hơn. 2 máy đó còn có tùy chọn dùng AF nhóm vùng và AF vùng động rộng hơn.

Khi chụp bằng Z7 khá dễ dàng làm mất chủ thể trong khung hình. Nhưng có một cải tiến đáng chú ý khi chuyển sang Z7 II
Khi chụp bằng Z7 khá dễ dàng làm mất chủ thể trong khung hình. Nhưng có một cải tiến đáng chú ý khi chuyển sang Z7 II

Hơn nữa,

Chụp ảnh chân dung trên máy nhấn mạnh về cách nhận diện mắt và mặt hiệu quả. Có thể nói là tính năng này ngang bằng với khả năng AF mắt trên Sony. Ta có thể nhận diện mắt và mắt nhiều hơn ở 2 chế độ diện rộng. Nó rất hữu ích và có nghĩa là bạn không phải phụ thuộc vào AF tự động. Bạn có thể chỉ định 1 người trong 1 nhóm mà bạn muốn hướng tới.

Giống như ở chế độ chụp ảnh tĩnh, cần điều khiển có thể được vuốt sang trái và phải. Dùng để chọn mắt mà bạn muốn máy ưu tiên lấy nét khi quay video. 1 số video cho thấy Z7 II thực hiện rất tốt việc duy trì tiêu điểm trên mặt và mắt. Ngay cả khi đang di chuyển và thu phóng.

Hiệu suất

Hiệu suất của EVF trên Nikon này tuyệt vời và sẽ gây ấn tượng với bất kỳ ai. Dù học có là người dùng DSLR không tin vào kính ngắm điện tử. Quang học chất lượng cao tạo ra góc nhìn cực kỳ rõ ràng đến tận rìa khung hình. Ưu điểm chính so với kính ngắm quang học: bạn sẽ quan sát trực tiếp các thay đổi phơi sáng. Đồng thời có thể kiểm tra chế độ xem có độ chính xác cao về mức ảnh hưởng của các giá trị khẩu độ khác nhau ảnh hưởng đến độ sâu trường ảnh.

Việc sử dụng nút phóng to ở phía sau để zoom khi ta nhìn sự vật qua máy sẽ cho thấy EVF sắc nét như thế nào. Thật vui khi thấy Nikon giảm tốc độ khung hình của EVF ở Chế độ tiết kiệm năng lượng. Vì trong những thời điểm quan trọng cần phải trữ pin.

Một sửa đổi khác đối với EVF: nó sẽ tự động tắt khi màn hình phía sau được lật ra. Ngoài việc tăng tuổi thọ pin, nó còn giúp chụp ảnh dễ dàng hơn. Vì cảm biến mắt sẽ không cản trở việc tắt màn hình khi đứng trực tiếp sau máy ảnh hoặc khi chạm vào màn hình.

Tuy nhiên,

Ngoại trừ màn hình không thể xoay ở định dạng dọc, còn có 1 hạn chế khác. Ta không thể tắt được thông tin chụp ảnh hiển thị trên màn hình. Điều này khiến bạn mất tập trung khi nhìn chủ thể hoặc cảnh khi chụp ảnh. Bạn có thể nghĩ là sẽ dùng tùy chọn hiển thị bằng nút DISP để khắc phục nó nhưng không có tác dụng đâu. Điều này cùng tương tự khi dùng nút playback. Tôi cũng có thể chọn nút DISP để xem lại ảnh mà không cần thông tin tệp ở cuối màn hình, hay là zoom ảnh.

Khi chụp 1 chuỗi các hành động là cơ hội để kiểm ra chế độ chụp liên tục của Z7 II và bộ đệm. Thẻ 64GB XQD có khả năng đọc 440MB/s và tốc độ ghi 400MB/s. Cho thấy máy mirrorless này là 1 đẳng cấp khác chụp ảnh trong thời gian dài.

Tôi đã ghi được 56 tệp 12bit 10fps lên thẻ XQD trước khi máy bị chậm lại. Việc chuyển đổi sang Fine JPEG cho ra 102 ảnh được ghi lại. Tôi đã thử dùng thẻ nhớ Manfrotto Professional 128GB CFexpress Type B có tốc độ đọc 1730MB/s và tốc độ ghi 1540MB/s. Với tính năng nén NEF (Raw) được nén 12bit, tôi có được 74 tệp thô 10fps. Việc chuyển sang Fine JPEG sẽ ghi được 139 ảnh tốc độ 10fps trước khi bộ đệm đạt giới hạn. Ở chất lượng ảnh JPEG thường, Z7 II cho 148 ảnh 10fps.

Ở quá trình vận hành tổng thể,

Z 7 II sẽ hoạt động ngay khi bạn gạt công tắc bật/tắt từ ngón trỏ. Tất cả các nút đều phản hồi ngay lập tức khi chúng được giữ hoặc nhấn. Cần điều khiển phản ứng ngay với bất kỳ sự thay đổi hướng nào. Không lúc nào có cảm giác máy ảnh sẽ làm bạn chậm lại.

Những điều trên, kết hợp với cách bố trí điều khiển trực quan, khiến cho việc vận hành trở nên cực kỳ thú vị. Đặc biệt là khi chụp ảnh để giải trí hoặc khi sử dụng trong môi trường áp lực. Nikon đã cân nhắc tỉ mỉ và thiết kế chuyên nghiệp trên Z7 II. Máy dành cho những người đam mê khó tính và những chuyên gia dày dạn kinh nghiệm có kỳ vọng rất cao thực sự tỏa sáng.

Chất lượng hình ảnh

Có tùy chọn chọn giữa ba kích thước hình ảnh khi vùng hình ảnh của Z7 II được đặt thành FX. Ngoài việc xuất ra các tệp pixel lớn (45,4MP) 8256×5504 pixel, còn có các kích thước hình ảnh trung bình (25,6MP) 6192×4128 pixel và nhỏ (11,4MP) 4128×2752 pixel để lựa chọn.

Việc chuyển vùng hình ảnh sang DX sẽ áp dụng mức crop 1,5 lần của cảm biến. Nó có thể được sử dụng để đạt được phạm vi tiếp cận rộng hơn từ lens, mặc dù độ phân giải giảm. Ở chế độ DX, Z7 II cho ra các tệp lớn (19,5MP) 5408×3600 pixel, với các kích thước trung bình (10,9MP) 4048×2696 pixel và nhỏ (4,9MP) 2704×1800 pixel cũng có sẵn.

Z7 II mang lại hiệu suất hình ảnh giống hệt với Z7
Z7 II mang lại hiệu suất hình ảnh giống hệt với Z7

Có thể nói là,

Không thay đổi về cảm biến, Z7 II mang lại hiệu suất hình ảnh giống hệt với Z7. Đây không phải tệ vì độ chi tiết và dải động đáng kinh ngạc của Z7 trước đó đã rất ổn. Trừ khi có nhu cầu in ảnh 40×60 inch thường xuyên, độ phân giải tối đa của Z7 II đã là quá đủ.

1 lợi thế mà Z7 II có so với các đối thủ là khả năng chụp ảnh tự nhiên ở mức ISO64. Mà không cần phải tăng độ nhạy. Nó cho phép trích xuất mức độ chi tiết thực sự kinh ngạc từ các vùng tối sâu trong quá trình xử lý raw. Điều đáng chú ý không kém là mức độ chi tiết mà cảm biến có thể phân giải ở ISO cao giống như Z7. Z7 II ngang bằng với hiệu suất nhiễu được ghi lại bởi Nikon D850 sử dụng cảm biến rất giống nhau.

ISO và độ nhiễu

Hiệu suất ISO của Z7 II không gây bất ngờ gì và cũng ấn tượng không kém Z7. Chụp ở chế độ raw, ảnh được đảm bảo chất lượng trong, không nhiễu trong khoảng cơ bản: ISO64 – ISO1600.

Ảnh raw được chụp ở ISO 400
Ảnh raw được chụp ở ISO 400

Đẩy lên ISO 3200 và ISO 6400, bạn sẽ bắt đầu nhận thấy nhiễu xuất hiện. Nhưng nó được kiểm soát tốt. Và có thể dễ dàng giải quyết bằng cách áp dụng một chút giảm nhiễu trong hậu kỳ. Chi tiết sẽ bị ảnh hưởng ở ISO12.800. Tuy nhiên tôi sẽ ngại sử dụng cài đặt này hoặc ISO 25.600 nếu cần.

Chi tiết sẽ bị ảnh hưởng ở ISO12.800.
Chi tiết sẽ bị ảnh hưởng ở ISO12.800.

Đến cài đặt ISO 51.200 và ISO 102.400 mở rộng sẽ thấy chất lượng hình ảnh xuống dốc nhanh chóng. Bạn sẽ muốn tránh mức ISO này. Tính năng giảm nhiễu tự động được áp dụng cho ảnh JPEG hoạt động tốt ở mức ISO 1600. Sau thời điểm đó, bạn sẽ nhận thấy kết cấu mịn và chi tiết bắt đầu trở nên mờ đi.

Cuối cùng, chất lượng hình ảnh tốt nhất đạt được bằng cách chụp ở dạng raw. Nhưng đối với những người chụp ảnh JPEG ở ISO cao raw nên giảm mức giảm nhiễu ở ISO cao từ bình thường xuống thấp.

Tổng kết

Có thể nói Z7 II không có khác biệt gì nhiều so với bản gốc ban đầu. Và các cập nhật tương tự tối thiểu dựa trên những gì chúng ta đã xem qua trước đó. Nhưng hãng đã lắng nghe các đóng góp từ người dùng và hành động. Sau cùng Nikon đã tạo ra chiếc mirrorless có độ phân giải cao ngày nay.

Cải thiện nổi bật là có thêm khe thẻ thứ 2. Đây được cho là rất quan trọng với các nhiếp ảnh gia. Vì họ là những người không thể để mất các thước ảnh quý giá nếu thẻ nhớ đơn bị lỗi, bị gián đoạn hoặc là bị hỏng.

Còn có nhiều thứ hơn là khe thẻ nhớ và bộ xử lý kép. Nó chỉ có thể chụp nhanh hơn 1fps. Nhưng với bộ đêm nhiều hơn và chế độ AF đơn 10fps, nó có thể chụp được nhiều tệp raw hơn cả Nikon D850. Các cải thiệm khác như có thể dùng với tay cầm dọc, video 4K 60fps, lấy nét trong bóng tối được hoan nghênh.

Ngoài ra,

So với Sony A7R V và Canon EOS R5, Nikon Z7 II có mức giá khá tốt cho một chiếc máy ảnh full-frame độ phân giải cao ấn tượng như vậy. Những ai dùng Nikon cần khe cắm thẻ đôi có khả năng mua Z7 II hoặc nâng cấp lên nó. Với những ai nghĩ rằng bây giờ là lúc chuyển từ DSLR sang hệ thống mirrorless Z-series nên mua nó. Đối với người đã sở hữu Z7, nếu đã hài lòng và thấy ổn với 1 khe cắm thẻ thì không nên mua thêm Z7 II. Ngay cả khi bạn bán chiếc Z7 của mình trong tình trạng tốt. Bạn vẫn có thể sẽ bù thêm được một khoản đáng kể để có được chiếc Z7 II.

Và đó là những gì Review Máy Ảnh muốn gửi đến bạn trong bài viết này. Đừng quên bấm theo dõi Review Máy Ảnh đón xem các bài viết bổ ích kế tiếp nhé!

Bài viết liên quan